Pháp luật Việt Nam quy định hai nhóm chủ sở hữu rừng là sở hữu Nhà nước và sở hữu ngoài Nhà nước. Điều 7, Luật Lâm nghiệp năm 2017 quy định về sở hữu của Nhà nước đối với rừng: “Nhà nước là đại diện chủ sở hữu đối với rừng thuộc sở hữu toàn dân, gồm rừng tự nhiên, rừng trồng do Nhà nước đầu tư toàn bộ…”. Chính phủ, UBND các cấp tỉnh, huyện là đại điện chủ sở hữu rừng tự nhiên thực hiện trao quyền sử dụng rừng cho các tổ chức, cá nhân, cộng đồng dân cư bằng các quy định pháp luật về giao quyền sử dụng rừng rừng và cho thuê rừng.
Điều 7, Luật Lâm nghiệp năm 2017 cũng quy định về sở hữu ngoài Nhà nước: “Tổ chức hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng tự đầu tư…”. Tổ chức hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng tự đầu tư đương nhiên có quyền sử dụng rừng đối với khu rừng. Quyền sử dụng rừng được quy định tại khoản 1 Điều 2, Luật lâm nghiệp: “Quyền sử dụng rừng là quyền của chủ rừng được khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ rừng”.
Khoản 1, Điều 105, Bộ Luật dân sự năm 2015 quy định về tài sản như sau: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản”. Carbon rừng là một trong những tài sản rừng khi carbon rừng được tính, xác nhận là tín chỉ carbon, mỗi tín chỉ carbon rừng chính là giấy tờ có giá và quyền tài sản. Với quy định này, tín chỉ carbon được xem như là một trong những tài sản rừng như gỗ, lâm sản ngoài gỗ. Khi đã là tài sản rừng, tín chỉ carbon trở thành hàng hóa được giao dịch, mua bán, chuyển nhượng trên thị trường. Tuy nhiên, hiện nay pháp luật vẫn còn thiếu những quy định hoặc hướng dẫn cụ thể về quyền sở hữu carbon rừng, hàng hóa carbon rừng. Do thiếu những quy định này, vấn đề sở hữu carbon rừng cũng chưa rõ ràng.